LỆNH THIÊN CHỈ GIÁO
CHA BÁO VIỆC THẦN
- Cha ban con những lời chỉ giáo
Việc con làm không giả mạo chi
Việc Thần Cha đã chép ghi
Từng công việc một ở thì sổ Thiên
Khi Cha trao Lệnh chỉ truyền
Là con ghi lại việc Thiên nơi này
Hoặc là nghe Lệnh truyền ngay
Con phải bắc ghế để nay Cha làm
Làm công việc của Thiên Đàng
Giúp âm phần nước Việt Nam anh hùng
Những việc Thiên đã ghi chung
Ở trần đang có sự không an lành
Gây điều nhức nhối hôi tanh
Gây sự bức xúc dân lành không an
Phải kiên quyết dẹp hoàn toàn
Âm, Dương hòa nhịp giúp làm trừ gian
Việc gì con được nghe sang
Từng một sự việc Cha ban con làm
Khi riêng một mình rõ ràng
Khi chung cả Đoàn có Lệnh của Cha
Làm gì cũng có lệnh ra
Không tự trần thế được là làm chi.
- Từ nay Lệnh Thần đã ghi
Việc bắt tà đất không thì lo toan
Đã dừng không ai được làm
Ai làm là bịa việc sang bắt tà
Cả nước một Lệnh Âm ra
Không có ai được xưng Cha Thánh Trần
Hoặc là các Quan có phần
Giúp việc cho trần trừ lũ tà gian
Lệnh Thiên đã dừng hoàn toàn
Dân đừng mê muội lo làm là sai
Phí tiền dân đi nhờ ai
Đồng tà bịa đặt nói sai để làm
Còn các việc khác Thiên Đàng
Ai được phép làm có Thánh giáng tay
Có lời, có tiếng Thánh bày
Có phép Thánh giúp việc nay gia đình
Đúng, trần hãy nhờ thực tình
Sai chớ có lễ tiền mình vất đi
Lại còn thêm tội một khi
Đốt bao vàng mã vất đi không cần
Thánh không chứng, chỉ tà thần
Bởi điện của trần đang có tà gian
Thánh, Thần không giáng trên ban
Lũ tà ác hại to gan trá hình
Đồng làm sẽ tội thực tình
Ba đời trần phải ngục hình đeo mang
Con, cháu, chắt sẽ chịu oan
Vì tội làm láo giả sang Thánh, Thần
Trình đồng, mở phủ cho dân
Đó là ăn lộc tà thần nói sai.
- Còn việc giải nghiệp, ngục, bài
Cha đã phát lệnh không sai tý nào
Chỉ có một cửa Thiên trao
Duy nhất trong nước Việt trao cho Đồng
Lệnh Thiên tối đẳng Thần thông
Duy nhất một Đồng bắc ghế ba Cha
Nghe được đủ tiếng sơn hà
Học được phép luật ban ra cho Đồng
Mới được ứng phép Thiên Hồng
Mới có chìa khóa mở gông ngục Thần
Đó là phép quyết âm phần
Khi có Lệnh Thần Cha giáng giúp ra
Không ai thứ hai sau Cha
Được giải mở ngục vong ra khỏi tù.
- Bao nhiêu thầy pháp ngốc ngu
Thầy mo bói toán, thầy tu ở chùa
Xưa nay đã dám nói bừa
Lập đàn phả độ sách xưa tụng cầu
Tụng kinh ngoại đạo đâu đâu
Đốt bao vàng mã, tiền hầu khổ dân
Biết bao tốn kém cho trần
Sớ in tự bịa việc phần của Thiên
Tai không có lệnh chỉ truyền
Miệng không nói được tiếng Thiên, tiếng Thần
Miệng đọc tụng sách của trần
Mà dám bảo mở ngục Thần vong ra
To gan, hỗn xược trình Tòa
Giải oan, cắt kết vong ra khỏi tù
Xin đài sấp, ngửa làm bừa
Nào thầy có biết tội lừa bịp dân
Tội đấy là tội với Thần
Những ai người trần đã dám to gan
Chưa có Lệnh Thánh giáng ban
Mà trần đã dám to gan làm bừa
Học sách thầy mo để lừa
Dân ai biết được từ xưa truyền đời
Thầy mo đi cúng kiếm lời
Chết xong vào ngục khổ đời hồn vong
Để lại con, cháu đèo bòng
Hai, ba đời phải long đong khổ phiền
Vì tai không nghe lời truyền
Tay không viết được chữ Tiên, chữ Trời
Miệng không nói được tiếng lời
Thơ Tiên của Thánh ban lời dạy dân
Không có phép soi ngục Thần
Không viết ra được nghiệp trần ra sao
Không biết vong ở ngục nào
Không biết mộ động vì sao khổ hồn
Chỉ thấy nhà ai khổ dồn
Trùng tang vì nghiệp, vì hồn vong gây
Xem bói gọi trùng tang nay
Trần đi nhờ thầy, thầy mở sách xem
Thế là ngả giá cúng liền
Còn gọi mở phủ thờ Thiên, thờ Thần
Thầy mo làm khổ bao dân
Tốn kém tiền trần tai họa vẫn mang.
- Thế kỷ hai mốt sửa sang
Thánh, Thần nước Việt lo toan giúp đời
Giúp Âm, giúp Dương đôi nơi
Mới có Lệnh Trời, Lệnh Thánh ban ra
Mới có Lệnh Âm nước nhà
Mới có Thượng Tòa tối đẳng cao siêu
Mới có Lệnh của Thiên triều
Cho soi gọi để giúp nhiều việc Thiên
Hội đồng mới chỉ định riêng
Cho người học phép làm riêng việc này
Phép Trời, phép Thánh giáng tay
Ứng thân soi xét cho nay gia đình
Nhà ai có nghiệp thực tình
Vong ở ngục hình vì tội xưa gây
Tội trần con, cháu dắt dây
Gọi là nghiệp chướng cho nay gia đình
Mồ mả không được an bình
Gia đình bất bình, con, cháu không an
Nghiệp nặng phải chết trùng tang
Cha gọi trùng nghiệp gian nan khổ trần
Ốm đau, bệnh tật khổ thân
Người thì bệnh trần, người bệnh nghiệp âm.
- Bây giờ Luật của Thiên cung
Mười đời trở lại có cùng nghiệp gây
Nhà ai có nghiệp dắt dây
Con, cháu, chắt, chút, chịu lây khổ phiền
Ai hợp người ấy khổ liền
Ai không hợp nghiệp không phiền, không lo.
- Còn nghiệp sống Thánh báo cho
Dân ta biết để mà lo cho mình
Thánh nước Nam đã giáng linh
Đã có sổ của Thiên Đình xét soi
Khắp trong nước Việt các nơi
Đền Thần, đền Thánh thờ người có công
Thờ để đáp nghĩa núi sông
Thờ tích đền đáp Cha, Ông bao đời
Nơi đấy đều có sổ Trời
Sổ ghi công, tội, dưới đời ra sao
Ai có công giúp đồng bào
Xây dựng đất nước thế nào Quan ghi
Ai có tội lỗi làm gì
Sổ Thần Quan cũng chép ghi tỏ tường
Đó là nghiệp sống trần dương
Không ai thoát được đoạn trường xảy ra
Sổ Thần có Thánh xét tra
Tội nặng, tội nhẹ, ai là ra sao
Chết rồi gọi tội chết vào
Còn sống gọi tội sống bao lỗi lầm
Thế kỷ hai mốt sổ cầm
Ghi tên vạch tội từng tầng lớp nay
Già, trẻ, lớn, bé tội gây
Kể cả quan chức ai nay làm gì
Có công, có tội sổ ghi
Rồi sẽ có sự ly kỳ cho dân
Khác thế kỷ hai mươi trần
Thế kỷ hai mốt ban phần báo tin
Để người còn sống sẽ tìm
Đọc bài Thánh giáng báo tin cho trần
Hãy tu nhân đức rất cần
Làm điều nhân đức giúp dân nước nhà
Đừng làm điều hại dân ta
Đừng làm hại nước Nam nhà sẽ gay
Có tội sống, chết không hay
Sẽ vào bể khổ đắng cay vô cùng
Con, cháu, chắt, sẽ khổ chung
Tội nặng sẽ phải chịu chung mười đời
Gọi là nghiệp chướng tơi bời
Của tiền rồi cũng khổ nơi thế trần
Có người sẽ phải khổ thân
Vì gánh nghiệp trần kiếp trước gây ra
Thánh, Thần nước sẽ xử tòa
Nặng khổ, nhẹ đỡ, xót xa cho trần
Đó là án nợ hại dân
Án nợ hại nước khi trần làm sai
Người viết nghe Cha đọc bài
Trần phải viết đúng không sai chữ nào
Đây Hồn Non Nước đọc trao
Sống làm cách mạng, chết vào giúp dân
Hồn được là Thánh, là Thần
Bao nhiêu hồn trần đang giúp nước ta
Đã và đang giúp nước nhà
Dương thịnh, âm thịnh, nước ta mạnh giàu
Bắt tay đoàn kết toàn cầu
Thù xưa lưu trữ, sổ đầu còn ghi
Việt Nam đất nước trường kỳ
Hồn Thiêng bất tử sử ghi tên vàng
Muôn đời tỏa ánh hào quang
Độ dân, giúp nước vẻ vang đời đời ./.
Kính viết theo lời Hồn Thánh đọc tại Đền Hòa Bình
ngày 09/7/2005 – 04/6/Ất Dậu
Trưởng đoàn: Phạm Thị Xuyến.